Nghị định 28/2020/NĐ-CP do Chính phủ ban hành vào ngày 01/3/2020 đã đặt ra các quy định quan trọng liên quan đến xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội (BHXH), bảo hiểm y tế (BHYT) và bảo hiểm thất nghiệp (BHTN). Điều này nhấn mạnh sự quan trọng của việc tuân thủ và đóng góp đầy đủ vào hệ thống bảo hiểm xã hội, từ đó đảm bảo quyền lợi và phúc lợi của người lao động. Cùng Luật sư tìm hiểu quy định về Mức phạt doanh nghiệp không đóng bảo hiểm xã hội cho nhân viên tại bài viết sau
Trốn đóng bảo hiểm xã hội là gì?
Hành vi trốn đóng bảo hiểm xã hội (BHXH) không chỉ là vi phạm pháp luật mà còn mang theo những hậu quả nghiêm trọng đối với quyền lợi của người lao động và ngân sách nhà nước. Điều này được thể hiện rõ trong Khoản 10, Điều 2, Nghị quyết 05/2019/NQ-HĐTP, nơi quy định rõ ràng về nghĩa vụ của người sử dụng lao động đối với việc đóng BHXH, bảo hiểm y tế (BHYT), và bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) cho người lao động.
Nghị quyết này đặc biệt chỉ ra rằng hành vi gian dối hoặc sử dụng các thủ đoạn khác nhau để trốn đóng hoặc không đóng đầy đủ BHXH, BHYT, BHTN cho người lao động thuộc đối tượng phải tham gia sẽ bị xem là trốn đóng BHXH. Điều này không chỉ là vi phạm cá nhân mà còn ảnh hưởng đến ổn định của hệ thống bảo hiểm xã hội và sự công bằng trong cộng đồng lao động.
Nghị định 28/2020/NĐ-CP, được Chính phủ ban hành vào ngày 01/03/2020, tiếp tục củng cố và mở rộng các quy định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực lao động, BHXH. Điều này bao gồm cả việc đưa người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng vào phạm vi quy định. Nghị định này không chỉ giúp tăng cường cơ sở hạ tầng pháp lý mà còn tăng cường biện pháp xử phạt đối với người sử dụng lao động khi có hành vi trốn đóng BHXH, góp phần ngăn chặn tình trạng lạm dụng và đảm bảo quyền lợi cho người lao động.
Mức phạt doanh nghiệp không đóng bảo hiểm xã hội cho nhân viên
Hành vi trốn đóng bảo hiểm xã hội (BHXH) không chỉ là vi phạm pháp luật mà còn đồng nghĩa với việc gây ra những hậu quả nghiêm trọng và lan rộng đến nhiều khía cạnh trong xã hội. Trong bối cảnh một nền kinh tế ngày càng phát triển, hệ thống BHXH không chỉ đóng vai trò bảo vệ quyền lợi của người lao động mà còn đóng góp tích cực vào sự phát triển bền vững của quốc gia.
Dựa vào quy định chi tiết trong Khoản 5 và Khoản 6, Điều 38, Nghị định 28/2020/NĐ-CP về việc vi phạm quy định đóng bảo hiểm xã hội (BHXH) bắt buộc và bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động, mức phạt được áp dụng đối với người sử dụng lao động không đóng BHXH cho người lao động sẽ được xác định cụ thể.
Trong trường hợp người sử dụng lao động vi phạm, họ sẽ phải chịu mức phạt tùy thuộc vào mức độ vi phạm. Cụ thể, nếu đơn vị không đóng BHXH bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp cho toàn bộ nhân viên thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc, BHTN mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, họ sẽ bị phạt tiền từ 18% đến 20% tổng số tiền phải đóng BHXH bắt buộc, BHTN tại thời điểm lập biên bản vi phạm hành chính. Tuy nhiên, mức phạt tối đa không quá 75 triệu đồng.
Đối với trường hợp cụ thể hơn, nếu đơn vị có hành vi trốn đóng BHXH bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, mức phạt tiền sẽ là từ 50 triệu đến 75 triệu đồng. Những biện pháp xử phạt này không chỉ nhằm vào khía cạnh kỷ luật, mà còn nhằm đảm bảo tính minh bạch, công bằng và hiệu quả của hệ thống bảo hiểm xã hội, đồng thời tạo động lực để người sử dụng lao động thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình.
Mức phạt khi công ty không lập hồ sơ tham gia BHXH bắt buộc
Hậu quả của hành vi trốn đóng BHXH đến từ việc thiệt hại trực tiếp đến quyền lợi của người lao động. Khi họ không được đóng BHXH đầy đủ, họ sẽ mất đi những đặc quyền và quyền lợi mà hệ thống bảo hiểm mang lại. Điều này có thể bao gồm việc không có quyền hưởng chế độ bảo hiểm y tế (BHYT) khi cần thiết, không đảm bảo quyền lợi về bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) trong trường hợp mất việc, và thiếu hụt các chính sách hỗ trợ khác trong trường hợp tai nạn lao động hay bệnh tật.
Theo quy định chi tiết tại Khoản 4, Điều 40, Nghị định 28/2020/NĐ-CP, đơn vị hay doanh nghiệp có hành vi không lập hồ sơ tham gia bảo hiểm xã hội (BHXH) bắt buộc cho nhân viên sẽ đối mặt với các hình phạt cụ thể và nghiêm túc.
Điều đáng chú ý là, trong khoảng thời gian 30 ngày, kể từ ngày giao kết hợp đồng lao động, làm việc hoặc tuyển dụng, đơn vị sẽ bị phạt tiền từ 2 triệu đến 4 triệu đồng đối với mỗi nhân viên mà họ chưa lập hồ sơ tham gia BHXH bắt buộc. Mức phạt này nhằm thúc đẩy tính chính xác và đúng đắn trong quá trình quản lý và thực hiện các nghĩa vụ về bảo hiểm xã hội đối với người lao động.
Mức phạt tối đa không quá 75 triệu đồng, điều này là biện pháp hỗ trợ nhằm đảm bảo tính minh bạch và tính công bằng trong quá trình thực hiện các quy định về đóng BHXH. Đồng thời, nó cũng là sự nhấn mạnh về tầm quan trọng của việc duy trì hồ sơ BHXH đầy đủ và chính xác để bảo vệ quyền lợi và phúc lợi của người lao động, cũng như đảm bảo sự ổn định và công bằng trong hệ thống bảo hiểm xã hội.
Thông tin liên hệ:
Vấn đề “Mức phạt doanh nghiệp không đóng bảo hiểm xã hội cho nhân viên” đã được Luật sư Lâm Đồng giải đáp thắc mắc ở bên trên. Với hệ thống công ty Luật sư Lâm Đồng chuyên cung cấp dịch vụ pháp lý trên toàn quốc. Chúng tôi sẽ giải đáp mọi thắc mắc của quý khách hàng liên quan tới thủ tục nhận bảo hiểm thất nghiệp. Với đội ngũ luật sư, chuyên viên, chuyên gia dày dặn kinh nghiệm, chúng tôi sẽ giúp quý khách giải quyết vấn đề một cách nhanh chóng, thuận tiện, tiết kiệm chi phí và ít đi lại.
Câu hỏi thường gặp
Ngoài việc bị phạt vi phạm hành chính theo quy định đã nêu trên công ty không đóng BHXH cho nhân viên sẽ phải thực hiện:
Truy nộp số tiền BHXH bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp phải đóng đã vi phạm
Nộp tiền lãi bằng 02 lần mức lãi suất đầu tư quỹ BHXH bình quân của năm trước liền kề tính trên số tiền, thời gian chậm đóng, không đóng, trốn đóng;
Căn cứ Điều 2 Luật Bảo hiểm xã hội 2014 quy định về đối tượng đóng bảo hiểm xã hội (BHXH) bắt buộc , theo quy định trên thì người làm việc theo hợp đồng lao động từ đủ 1 tháng trở lên sẽ thuộc đối tượng đóng BHXH bắt buộc.
Do đây là khoản bắt buộc nên việc đóng hay không phải do người lao động và doanh nghiệp tự quyết định.